hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Quản lý nhà nước về kinh tế là một dạng quản lý xã hội của Nhà nước. Nó rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng cũng rất
NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC; TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI; Quotes; Tâm lý học Tham vấn - Trị liệu Protected: Chương 11: Lý thuyết lựa chọn/ Liệu pháp thực tế (dẫn nhập) Giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định . Bài viết mới nhất.
Trong một xã hội tự do về kinh tế, các cá nhân được tự do làm việc, sản xuất, tiêu dùng và đầu tư theo bất kỳ cách nào họ muốn. Trong xã hội tự do về kinh tế, chính phủ cho phép lao động, vốn và hàng hóa di chuyển tự do và không ép buộc hoặc hạn chế quyền tự do vượt quá mức cần thiết để bảo vệ và duy trì quyền tự do(2).
Lấy Tin Mừng thâm nhập và làm phong phú xã hội . 62. Với giáo huấn xã hội của mình, Nhờ lý trí, học thuyết xã hội của Giáo Hội đã kết hợp với triết học theo logic riêng của mình, hay nói cách khác, kết hợp bằng những lập luận đặc thù của học thuyết xã hội.
1h Lý thuyết thâm nhập xã hội (Social Penetration Theory) đưa ra các giai đoạn khác nhau trong việc xây dựng mối quan hệ của một người với ai đó bằng cách chia sẻ thông tin về bản thân - được
nói theo ngôn ngữ của lý thuyết hệ thống, hội nhập sâu là trường hợp quốc gia hội nhập với tư cách là một bộ phận cấu thành hệ thống, có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành và phát triển "tính trồi" (emergent) của cả hệ thống; còn hội nhập nông là trường hợp quốc gia hội nhập hầu như không có ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển "tính …
- trước khi nhập ngũ đang làm việc tại cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thì khi xuất ngũ cơ quan, tổ chức đó phải có trách nhiệm tiếp nhận lại, bố trí việc làm và bảo đảm thu nhập không thấp hơn trước khi nhập ngũ; trường hợp cơ quan, tổ chức đó đã giải thể thì cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp có trách nhiệm bố …
FGOMk. 4,421 followers 10mo Edited 🔑 Ứng dụng Lý thuyết thâm nhập xã hội trong xây dựng kết nối với nhân tài trên mạng xã hội 🌎 Thương hiệu Nhà tuyển dụng trên mạng xã hội được xây dựng với sứ mệnh kết nối con người với con người, con người với cơ hội việc làm, con người với Nhà tuyển dụng, do đó, thúc đẩy sự kết nối là cách tốt nhất để thu hút các nhóm nhân tài mục tiêu. Vậy làm thế nào để kết nối sâu sắc hơn với nhân tài thông qua chiến lược nội dung trên mạng xã hội? 💡 Có một bí thuật tâm lý đằng sau quá trình làm quen với một người mới, một doanh nghiệp mới hay một Thương hiệu Nhà tuyển dụng mới. Nó được gọi là Lý thuyết thâm nhập xã hội Social Penetration Theory với các giai đoạn khác nhau trong việc xây dựng mối quan hệ với ai đó. Hãy cùng Talent Brand khám phá và bỏ túi cách áp dụng hữu ích lý thuyết này trong xây dựng chiến lược nội dung trên mạng xã hội nhé! 🎯 Mời Các Anh Chị cùng tham khảo bài viết! TalentBrand EmployerBranding KetnoiNhantai Ứng dụng Lý thuyết thâm nhập xã hội trong xây dựng nội dung kết nối với nhân tài trên mạng xã hội Explore topics
Thang Huynh’s Post CEO & Employer Branding Advisor at Talent Brand - We support companies developing and executing integrated strategies that help attract, connect, and engage talents. 10mo Lý thuyết thâm nhập xã hội Social Penetration Theory đưa ra các giai đoạn khác nhau trong việc xây dựng mối quan hệ của một người với ai đó bằng cách chia sẻ thông tin về bản thân – được gọi là tự bộc lộ self-disclosure. Sự bộc lộ self-disclosure xảy ra trong bốn giai đoạn Cấp độ một – Sáo ngữ Cấp độ hai – Sự thật Cấp độ ba – Ý kiến Cấp độ bốn – Cảm xúc Mời bạn cùng tìm hiểu thêm về lý thuyết này và cách áp dụng trong truyền thông employerbranding trên mạng xã hội trong bài viết sau Ứng dụng Lý thuyết thâm nhập xã hội trong xây dựng nội dung kết nối với nhân tài trên mạng xã hội More from this author Explore topics
Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free 71 Tạp chí Tâm lý học, Số 10 199, 10 - 2015, HÒA NHẬP XÃ HỘI MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ VIỆC TRIỂN KHAI NGHIÊN CỨU, ĐO LƯỜNG Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia NAFOSTED trong đề tài Các quan điểm lý thuyết về hòa nhập xã hội và hòa nhập xã hội của nhóm lao động nghèo nhập cư vào các đô thị nước ta trong quỏ trỡnh CNH, HĐH đất nước; Mã số do Phạm Văn Quyết làm chủ nhiệm. Phạm Văn Quyết TS. Trần Văn Kham Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. TÓM TẮT Bài viết tóm lược những nét chủ yếu trong quan điểm của Emile Durkheim và rộng hơn là quan điểm của các nhà chức năng luận về vấn đề hội nhập/hòa nhập xã hội. Sự quan tâm hơn hướng đến các quan điểm và các tiếp cận về hòa nhập xã hội trong vài chục năm lại đây, khi các nghiên cứu này được gắn với việc giải quyết các vấn đề của thực tế xã hội liên quan đến các nhóm ngoài lề, nhóm dễ bị tổn thương tại nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Trên cơ sở các quan điểm trong việc triển khai nội dung hòa nhập xã hội của các tổ chức quốc tế, của các quốc gia và của nhiều tác giả, bài viết đề xuất về các chiều cạnh cơ bản của hòa nhập xã hội để làm cơ sở cho việc triển khai các nghiên cứu vấn đề này với các nhóm yếu thế tại Việt Nam hiện nay. Từ khóa Hòa nhập xã hội; Hội nhập xã hội; Quan điểm về hòa nhập xã hội. Ngày nhận bài 21/9/2015; Ngày duyệt đăng bài 25/9/2015. 1. Đặt vấn đề Hòa nhập xã hội social inclusion thường được hiểu một cách chung nhất là quá trình mà trong đó cá nhân hoặc nhóm xã hội nào đó được xã hội tạo các điều kiện thuận lợi để tham gia một cách tích cực vào đời sống xã hội trong sự bình đẳng với các thành viên khác của xã hội. Tuy có sự hiểu biết chung như vậy, nhưng trong thực tế nghiên cứu về sự hòa nhập xã hội đã tồn tại khá nhiều quan điểm khác nhau về bản chất và nội dung của khái niệm này, đặc biệt trong xác định nội dung các chỉ báo để nghiên cứu, đánh giá về mức độ 72 Tạp chí Tâm lý học, Số 10 199, 10 - 2015, hòa nhập xã hội của các nhóm xã hội yếu thế. Trong bài viết này trên cơ sở các nghiên cứu có liên quan, chúng tôi muốn làm rõ một số quan điểm về bản chất, nội dung của hòa nhập xã hội, các tiêu chí nhằm giúp việc đo lường, đánh giá về mức độ hòa nhập xã hội của một số nhóm xã hội yếu thế hiện nay ở Việt Nam. 2. Một số quan điểm về hòa nhập xã hội Hòa nhập, hội nhập xã hội và quan điểm của các nhà chức năng luận Theo mục tiêu và nội dung, khái niệm hòa nhập xã hội và hội nhập xã hội Social integration trong nhiều trường hợp được sử dụng với sự phân biệt không đáng kể hoặc không rõ ràng. Cook S. 1994 cho rằng hòa nhập, hội nhập và sự cố kết cohesion được sử dụng có thể thay thế cho nhau, nhưng cũng có thể sử dụng với sự khác nhau được nhấn mạnh. Ngay trong nghiên cứu của UNRISD 1994 đã cho rằng hội nhập xã hội “với một số người nó là mục tiêu của sự hòa nhập, nghĩa là quyền và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người… Còn với những người khác, nó đơn giản chỉ là cách để mô tả các khuôn mẫu đã được thiết lập về mối quan hệ của con người trong một xã hội nhất định”. Hoặc trong tiếp cận của Hội nghị Thượng đỉnh về phát triển xã hội năm 1995 tại Copenhagen, hội nhập xã hội được xác định với mục tiêu tạo ra một xã hội hòa nhập, “một xã hội cho tất cả mọi người”, trong đó từng cá nhân với các quyền và nghĩa vụ đều đóng một vai trò tích cực United Nations, 1995. Vì vậy, khi bàn về các quan điểm hòa nhập xã hội chúng ta không thể không đề cập đến hội nhập xã hội. Trong khoa học xã hội, vấn đề hội nhập xã hội được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và trở thành vấn đề được nghiên cứu rất phổ biến. Người đầu tiên đặt dấu ấn đậm nét trong nghiên cứu về hội nhập xã hội, đồng thời cũng là người đặt nền móng cho Chủ nghĩa chức năng là nhà xã hội học người Pháp Emile Durkheim 1789 - 1857. Quan điểm về hội nhập xã hội của ông được trình bày trong sự gắn kết chặt chẽ với khái niệm đoàn kết xã hội social solidarity. Ông sử dụng khái niệm đoàn kết xã hội để chỉ các mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa các cá nhân với nhau, giữa cá nhân với nhóm xã hội. Nếu như không có sự đoàn kết xã hội thì các cá nhân riêng lẻ, biệt lập không thể tạo thành xã hội với tư cách là một chỉnh thể Lê Ngọc Hùng, 2002. Về hội nhập xã hội, Durkheim cho rằng, xã hội dường như đã sử dụng một sức mạnh bắt buộc đối với mỗi cá nhân. Chuẩn mực, niềm tin và các giá trị mà ông gọi là ý thức tập thể được coi như cơ sở đạo đức của xã hội. Ý thức tập thể liên kết các cá nhân với nhau tạo ra hội nhập xã hội. Ý thức tập thể là 73 Tạp chí Tâm lý học, Số 10 199, 10 - 2015, chìa khóa quan trọng cho việc giải thích sự tồn tại của xã hội Nó tạo ra và duy trì xã hội. Trong khi đó, ý thức tập thể là sản phẩm của các cá nhân thông qua hành động và tương tác của họ. Như vậy, xã hội là một sản phẩm có tính xã hội được tạo ra bởi các hành động của cá nhân sau đó tác động trở lại bởi một sức mạnh xã hội mang tính bắt buộc đối với mỗi cá nhân. Thông qua ý thức tập thể của họ con người trở nên hiểu biết nhau như sinh vật xã hội, chứ không phải như động vật dẫn theo Kenneth D. Allan, 2005. Theo cách thức hội nhập xã hội, Durkheim đã nói về hai loại xã hội Xã hội đơn giản và xã hội hiện đại. Trong khi xã hội đơn giản dựa trên đoàn kết cơ học, được tạo bởi ý thức tập thể, trong đó cá nhân hội nhập, liên kết với người khác thông qua mối quan hệ gần gũi có tính truyền thống, tập tục và quan hệ gia đình, thì xã hội hiện đại dựa trên tinh thần đoàn kết hữu cơ, trong đó cá nhân hội nhập, được kết nối bởi sự phụ thuộc vào những người khác trong phân công lao động. Trong xã hội hiện đại, dưới sự đoàn kết hữu cơ, mọi người nhất thiết phải phụ thuộc lẫn nhau, hợp tác chặt chẽ trong sự chuyên môn hóa và phân công lao động. Như vậy, theo Durkheim đoàn kết và hội nhập xã hội là cần thiết cho sự sống còn của các xã hội và sức mạnh xã hội bắt buộc đối với cá nhân sẽ không theo cùng kiểu như dưới đoàn kết cơ học. Từ quan điểm của Durkheim, vấn đề hội nhập xã hội tiếp tục được nghiên cứu và mở rộng trong quan điểm của các nhà chức năng luận. Theo đó hội nhập xã hội gắn với những nguyên tắc mà qua đó các cá nhân hay các chủ thể hành động được liên kết với nhau. Bên cạnh đó, các nhà chức năng luận còn nhấn mạnh đến vấn đề hội nhập hệ thống xã hội. Nó được xem như phương thức quan hệ của những yếu tố trong hệ thống xã hội, mà vì hệ thống đó chúng hành động một cách tập thể để tránh phá vỡ hệ thống, đồng thời chúng luôn hợp tác để thúc đẩy sự hoạt động của hệ thống xã hội như một chỉnh thể. Ở góc độ lý luận, hội nhập xã hội chỉ ra những nguyên tắc mà qua đó các cá nhân theo vị thế xã hội gắn kết với nhau trong không gian xã hội và đề cập đến các mối quan hệ giữa các chủ thể các chủ thể chấp nhận các nguyên tắc xã hội như thế nào. Hội nhập của một hệ thống xã hội có nghĩa là các tương tác trao đổi qua lại giữa các thành tố của một cấu trúc xã hội cụ thể Marshall G., 1998. Khi bàn về tiến trình hoà nhập của những nhóm thiểu số nhất định, quan niệm hội nhập không chỉ có mối liên hệ chặt chẽ đến xã hội hoá, tiếp biến, hòa đồng mà còn được đề cập đến quá trình trở thành một bộ phận không thể tách rời của toàn bộ tiến trình này, trong đó có cả kết quả của tiến trình. Như vậy, có thể nói với các nhà chức năng luận thì các lập luận khoa học ở cả góc độ vĩ 74 Tạp chí Tâm lý học, Số 10 199, 10 - 2015, mô hay vi mô đều nhìn nhận hội nhập xã hội theo cách thức mà các bộ phận/các yếu tố khác nhau của xã hội/hệ thống xã hội quan hệ với nhau ra sao, cũng như sự tương tác, gắn kết cá nhân hội nhập và hệ thống xã hội hội nhập. Các quan điểm về hòa nhập xã hội hiện nay Trong vài chục năm gần đây, hòa nhập xã hội và các vấn đề về hòa nhập xã hội gắn với các nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề của thực tế xã hội, đã nổi lên như một xu hướng xã hội quan trọng được nhiều quốc gia quan tâm. Vấn đề này được bắt nguồn từ đầu những năm tám mươi của thế kỷ trước, khi loại trừ xã hội social exclusion hay nhóm ngoài lề gắn với đói nghèo và việc làm được quan tâm giải quyết như một quan điểm chính trị ở nhiều nước châu Âu và Bắc Mỹ. Quỹ Laidlaw, Canada cho rằng, vấn đề loại trừ xã hội nổi lên ở châu Âu những năm 1980 chính là câu trả lời cho sự gia tăng của phân hóa xã hội, như kết quả của điều kiện thị trường lao động mới và sự thiếu sót đang tồn tại của hệ thống phúc lợi xã hội dự phòng cần được thay đổi theo nhu cầu của các thành phần cư dân khác nhau. Hòa nhập xã hội trong chừng mực nào đó được xem xét như một sự hưởng ứng đáp lại vấn đề loại trừ xã hội. Hòa nhập xã hội là nói về sự đảm bảo chắc chắn rằng tất cả trẻ em, người lớn đều được chú ý, được tôn trọng, có chỗ đứng giống nhau, đồng thời đều có khả năng tham gia vào đời sống xã hội cả ở mức độ quốc gia và cộng đồng Laidlaw Foundation, 2002. Thực tế, nhiều nhà nghiên cứu về hòa nhập xã hội đã hướng đến xem xét nó trong mối quan hệ với loại trừ xã hội. Họ cho rằng hai vấn đề này cần được phân tích, xem xét vấn đề liên quan. Trên cơ sở tiếp cận này, chúng ta sẽ cùng điểm qua một số quan điểm về hòa nhập xã hội hay một số cách giải quyết vấn đề loại trừ xã hội tại các nước phát triển hiện nay. Quan niệm loại trừ xã hội được xuất phát từ bối cảnh nước Pháp những năm 1970 với các nghiên cứu về các nhóm người dễ bị tổn thương, nằm ngoài hệ thống bảo hiểm xã hội như người khuyết tật, người già đơn thân và người thất nghiệp. Nhằm can thiệp, giảm thiểu sự loại trừ xã hội đối với họ, nhất là với nhóm người bị ảnh hưởng bởi thất nghiệp, việc tạo điều kiện cho họ quay trở lại với thị trường lao động hơn là đưa ra hoạt động trợ cấp thất nghiệp thuần túy đã được đặc biệt quan tâm. Theo cách tiếp cận này, vào những năm 1980, chính phủ Pháp đưa ra nhiều chính sách mới về các lĩnh vực việc làm, đào tạo, nhà ở, sức khỏe, giáo dục, dịch vụ xã hội, văn hóa và quyền công dân. Khi hướng đến các hoạt động hỗ trợ cho các nhóm yếu thế, các chính sách mới này đặt trọng tâm vào việc phòng ngừa, hơn là chạy theo các nhu cầu của họ. Cũng từ tiếp cận đó, việc giải quyết vấn đề loại trừ xã hội được chính phủ đưa 75 Tạp chí Tâm lý học, Số 10 199, 10 - 2015, vào các chương trình về quyền công dân và sự đoàn kết xã hội hơn là hướng vào việc giải quyết các chiều cạnh kinh tế hay chính trị thuần túy. Theo đó việc giải quyết những vấn đề lề hóa cuộc sống cũng như việc phục hồi lại các mối quan hệ xã hội và tăng cường sự cố kết xã hội gắn với việc đề cao vai trò của Nhà nước. Điều này cũng cho thấy xã hội có trách nhiệm tạo dựng các hoạt động trợ giúp và phương thức sống cho mọi thành viên và ngược lại, các thành viên có trách nhiệm đóng góp lại xã hội đó Australian Government, 2008. Trên cơ sở cách tiếp cận ở Pháp, quan điểm đẩy mạnh hội nhập xã hội đã được thể hiện trong các chương trình nghị sự của Hội đồng châu Âu vào những năm 1990 và 2000 thông qua các chương trình chống đói nghèo, tăng cường sự cố kết xã hội như Chương trình nghị sự Lisbon. Từ sau năm 2000, các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu đã xây dựng các chương trình hành động quốc gia về hòa nhập xã hội. Nội dung chính của chương trình nhằm xóa bỏ sự loại trừ xã hội và nâng cao hòa nhập xã hội. Quá trình xây dựng các chương trình hành động này được xem như là bước chuyển đổi từ cách tiếp cận việc làm sang cách tiếp cận xây dựng nhà nước phúc lợi Booth T., 2002; Boushey H., S. Fremstad, R. Gragg & M. Waller, 2007. Ở Canada, đầu những năm 2000, hàng loạt các nghiên cứu về hòa nhập xã hội được thực hiện nhằm hướng đến xây dựng các tiêu chí đánh giá quá trình hòa nhập thành công của các đối tượng yếu thế trong xã hội cũng như tạo dựng các hoạt động tăng cường vai trò của thể chế, chính sách xã hội để nâng cao hiệu quả của hòa nhập xã hội. Các giá trị cơ bản của hòa nhập xã hội được tiếp cận ở Canada dựa trên những khía cạnh sau Thứ nhất, giá trị của sự thừa nhận, nghĩa là hướng đến việc thừa nhận và tôn trọng cá nhân/nhóm, các giá trị chung và sự khác biệt; Thứ hai, sự phát triển cá nhân, đề cập đến việc nuôi dưỡng tài năng, khả năng và sự lựa chọn của trẻ em và người lớn để sống cuộc sống mà họ cảm thấy có giá trị và tạo ra được những đóng góp cho xã hội; Thứ ba, sự tham gia và gắn kết liên quan đến việc cá nhân có quyền và được trợ giúp cần thiết để tham gia vào việc ra quyết định liên quan đến bản thân họ, đến gia đình và cộng đồng và cùng gắn kết vào cuộc sống của cộng đồng; Thứ tư, giá trị về sự gần gũi, liên quan đến việc chia sẻ không gian và xã hội nhằm tạo các cơ hội để tương tác và làm giảm khoảng cách giữa các cá nhân; Thứ năm, sự thoải mái về vật chất, nghĩa là có được các nguồn lực vật chất cho phép trẻ em và các bậc cha mẹ tham gia một cách đầy đủ vào các hoạt động của cộng đồng Donnelly P. & J. Coakley, 2002; G. Esping-Andersen, 2002. Các nghiên cứu gần đây ở Mỹ về hòa nhập xã hội cũng nhấn mạnh nhiều đến các vấn đề quan hệ xã hội. Họ cho rằng, vấn đề nghèo đói là nền 76 Tạp chí Tâm lý học, Số 10 199, 10 - 2015, tảng dẫn đến sự lề hóa, còn yếu tố hòa nhập xã hội sẽ hướng đến tạo sự cố kết, đoàn kết xã hội. Theo các nghiên cứu này, các chỉ báo để đánh giá về mức độ hòa nhập không chỉ dừng lại ở vấn đề thu nhập, mà còn ở các khía cạnh khác liên quan đến sức khỏe, giáo dục, kỹ năng, sự phát triển và cơ hội. Cùng với quan điểm này, những nghiên cứu hòa nhập ở lĩnh vực khuyết tật và các nhóm người dễ bị tổn thương cũng đưa ra ba khía cạnh chính của sự hòa nhập, đó là Sự tham gia vào các hoạt động của cộng đồng, sự phát triển và duy trì các mối quan hệ xã hội và cảm giác thuộc về nhóm McConkey R., 2007; Andrew Mitchell and Richard Shillington, 2002. Như vậy, thực tế cho thấy đã tồn tại nhiều quan điểm, tiếp cận khác nhau, từ quan điểm thuần túy lý thuyết mang tính vĩ mô đến các quan điểm nghiên cứu thực tế hướng đến việc giải quyết vấn đề hòa nhập của các nhóm xã hội cụ thể, hòa nhập xã hội luôn là một trong những vấn đề trọng tâm của khoa học xã hội, nhất là trong lĩnh vực xã hội học và công tác xã hội hiện nay. 3. Tiến tới triển khai nghiên cứu, đo lường về hòa nhập xã hội Để có thể tiến hành nghiên cứu, đánh giá mức độ hòa nhập xã hội của các cá nhân, nhóm xã hội nhất định trong đời sống xã hội của cộng đồng, của xã hội nào đó, chúng ta cần làm rõ bản chất thực sự và nội dung các chiều cạnh của hòa nhập xã hội mà trong đó thể hiện được sự tham gia tích cực của người dân vào đời sống xã hội. Như vậy, hòa nhập xã hội cần được xem xét dưới góc độ khái niệm làm việc, gắn với điều kiện lịch sử xã hội cụ thể và trong chừng mực nhất định cần gắn với hoàn cảnh và đặc điểm cụ thể của nhóm xã hội được nghiên cứu. Ở đây chúng tôi sẽ trình bày một thao tác của hòa nhập xã hội với các chỉ báo chung nhất cho việc nghiên cứu, đánh giá sự hòa nhập của cá nhân, nhóm xã hội nhất định trong đời sống của cộng đồng, của xã hội. Đối với việc xác định thao tác khái niệm, chúng tôi cho rằng việc phân tích những kinh nghiệm từ các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước cũng là định hướng cơ bản, không thể thiếu để giúp làm rõ bản chất và nội dung của khái niệm. Với vấn đề hòa nhập xã hội, những nghiên cứu đối với người nhập cư, người nghèo, người nghiện ma túy sau cai nghiện… đã được khá nhiều tác giả quan tâm. Theo hướng tiếp cận của Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội năm 1995 tại Copenhagen, mục tiêu của hội nhập xã hội là tạo ra “một xã hội cho tất cả mọi người”, dựa trên nguyên tắc không ép buộc, tôn trọng sự đa dạng, thúc đẩy sự bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ công. Từ nhận thức thực tế của quá trình toàn cầu hóa, một số khu vực/nhóm được hưởng các lợi ích quý giá, trong khi những khu vực/nhóm khác thì không, sự đa dạng của các nhóm di cư 77 Tạp chí Tâm lý học, Số 10 199, 10 - 2015, với ngôn ngữ, tôn giáo và bản sắc riêng biệt, những cảm giác về nhóm ngoài lề quan điểm của Hội nghị là cần hướng đến việc thiết kế các chính sách thích hợp nhằm giảm bớt những khác biệt và tạo điều kiện cho phép sự tham gia tích cực của người dân vào đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Trong ý nghĩa này, hòa nhập xã hội là trái ngược với loại trừ xã hội và mối quan tâm của Hội nghị là thúc đẩy tăng cường sự hội nhập xã hội, tôn trọng sự khác biệt, giảm bớt khả năng xảy ra bạo lực và cung cấp nền tảng cho sự hợp tác United Nations, 1995. Phù hợp với tiếp cận trên, sau này các tác giả trong báo cáo kinh nghiệm nhóm tiếp xúc cho thúc đẩy hội nhập xã hội năm 2008 UNDESA, 2008 cũng đã đưa ra cách xác định với những lý giải cụ thể hơn Hội nhập xã hội được xác định như quá trình thúc đẩy các giá trị, mối quan hệ và các thiết chế mà cho phép tất cả mọi người tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế và xã hội trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi, công bằng và nhân phẩm. Điều này không bao gồm quá trình hội nhập xã hội dựa trên sự cưỡng bức hoặc sự cố gắng có tính áp đặt sự đồng nhất lên nhóm cư dân bị miễn cưỡng. Tăng cường hội nhập xã hội yêu cầu chú ý đến 3 sự khác biệt, nhưng có mối quan hệ với nhau, mà sự thực hiện chúng tạo ra phạm vi để mọi người có thể sống và làm việc cùng nhau trên cơ sở bình đẳng. Đó là thừa nhận sự khác biệt của các nhóm xã hội, các nền văn hóa và bản sắc nhằm thúc đẩy sự tôn trọng, phẩm giá và sự hợp tác; đại diện của tiếng nói chính trị để đảm bảo chắc chắn rằng lợi ích của các nhóm khác nhau được tính đến trong việc ra quyết định và phân bổ nguồn lực; sự phân phối lại các nguồn lực kinh tế xã hội cho các cá nhân và các nhóm nhằm ngăn ngừa sự bất bình đẳng sâu sắc giữa các dân tộc, khu vực, giới tính, tuổi tác hay các đặc tính xã hội khác. Quỹ Laidlaw, Canada trên cơ sở những tranh luận về vấn đề loại trừ xã hội của nhiều tác giả đã đưa ra cách xác định làm việc về hòa nhập xã hội. Theo đó hòa nhập xã hội là nói về sự đảm bảo chắc chắn rằng tất cả trẻ em và người lớn đều có khả năng tham gia như những thành viên có trách nhiệm, được tôn trọng và có phẩm giá của xã hội. Sự thừa nhận về tính quan trọng của sự khác biệt và sự đa dạng là trung tâm của sự hiểu biết khái niệm cả ở mức cộng đồng và quốc gia. Một bước đi xa hơn, hòa nhập xã hội theo cách xác định này là hướng đến sự phê chuẩn và thừa nhận tính đa dạng cũng như tính cộng đồng của các kinh nghiệm sống, những khát vọng được chia sẻ trong cư dân, sự hiển nhiên cá biệt trong gia đình với trẻ em. Ngoài ra, hòa nhập xã hội gợi cho thấy sự xóa bỏ dần khoảng cách về kinh tế, xã hội và thể chất của các cư dân riêng rẽ hơn là chỉ nói về việc loại bỏ ranh giới giữa chúng ta và họ. 78 Tạp chí Tâm lý học, Số 10 199, 10 - 2015, Như vậy, cả ở nội dung một số quan điểm hòa nhập xã hội đang phổ biến tại các nước phát triển đã trình bày và một số kinh nghiệm của các nghiên cứu thực tế về vấn đề hòa nhập xã hội cho thấy hòa nhập xã hội là hướng đến sự cố kết, đoàn kết và sự sẻ chia; hòa nhập xã hội nghĩa là sự đảm bảo chắc chắn rằng mỗi thành viên của xã hội hòa nhập vào xã hội hơn là bị loại trừ. Mặt khác, với sự thừa nhận tính đa dạng, sự khác biệt của xã hội thì việc nghiên cứu về hòa nhập xã hội của một nhóm xã hội nào đó cần dựa trên khuôn mẫu xã hội đối với nhóm đó và những cải thiện nhằm khắc phục những cản trở xã hội đối với sự tham gia của nhóm và các thành viên vào đời sống xã hội. Điều đó cũng có nghĩa những giá trị, chuẩn mực của xã hội cùng với các chính sách xã hội đối với nhóm là cơ sở quan trọng để hình thành các điều kiện thuận lợi để nhóm và các thành viên của nhóm chủ động tham gia vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Vấn đề là các điều kiện do xã hội tạo ra cùng sự chủ động tham gia của nhóm và các thành viên hướng vào lĩnh vực nào của đời sống xã hội còn hoàn toàn tùy thuộc vào định hướng, cách tiếp cận của xã hội với nhóm và các đặc trưng, bản sắc của từng nhóm xã hội cụ thể. Thừa nhận cách tiếp cận đa chiều, trong vài chục năm gần đây, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về hòa nhập xã hội đều hướng tới xác định điều kiện được tạo ra để đảm bảo sự tham gia tích cực của người dân vào các lĩnh vực cơ bản nhất của đời sống xã hội. Đó là sự hòa nhập về đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội ví dụ Cappo, 2002; Ferrie, 2008; Ferguson, 2008 và nhiều tác giả khác. Nghiên cứu sự hòa nhập theo các chiều cạnh trên cũng là những cơ sở quan trọng để nói về việc khắc phục những rào cản cơ bản của loại trừ xã hội. Hướng tiếp cận đa chiều cũng được thể hiện đầy đủ trong Báo cáo phát triển thế giới năm 2000/2001 của World Bank khi nhấn mạnh quan điểm hiện nay về đói nghèo cần mang tính toàn diện, không chỉ là thu nhập và tiêu dùng thấp mà còn là mức thấp của giáo dục, sức khỏe, dinh dưỡng và nhiều khía cạnh khác trong phát triển con người World Bank, 2001. Các chiều cạnh chung nhất trong tiếp cận đa chiều được xác định đối với nghiên cứu về hòa nhập xã hội sẽ được thể hiện qua các chỉ báo cụ thể phù hợp với đặc điểm và nhu cầu của các nhóm thiểu số mà các nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên để xây dựng hệ thống chỉ báo này cũng cần xuất phát từ chính mục tiêu của từng nghiên cứu cụ thể. Chúng ta sẽ phân tích một số ví dụ cụ thể từ các nghiên cứu ở các nước. Trong nghiên cứu về vấn đề hòa nhập xã hội hay loại trừ xã hội của người nghèo ở Canada, Andrew Mitchell và Richard Shillington 2002 trên cơ 79 Tạp chí Tâm lý học, Số 10 199, 10 - 2015, sở phân tích nội dung các chiều cạnh của hòa nhập và loại trừ bao gồm 1 Chiều cạnh về hạ tầng; 2 Chiều cạnh kinh tế; 3 Vốn con người; 4 Vốn xã hội và 5 Chiều cạnh chính trị. Haan 1998 và Freiler 2001 trong nghiên cứu của mình đã đề nghị mô hình thao tác hóa khái niệm hòa nhập xã hội phù hợp với quan điểm của Quỹ Laidlaw có tính đến sự hòa nhập của trẻ em. Mô hình đó bao gồm 1 Chiều cạnh kinh tế và hạ tầng sự thỏa mái về vật chất, thu nhập, địa phương nơi sinh sống, nhà ở, giao thông; 2 Tài sản con người sức khỏe, giáo dục, chất lượng môi trường; 3 Tài sản xã hội có đặc điểm cá nhân, cơ hội tham gia các nhóm có tổ chức và 4 Chiều cạnh chính trị có thể chỉ sự hiểu biết hòa nhập chính trị trong sự kiện nào đó. Trong nghiên cứu về hòa nhập xã hội đối với người tàn tật, Diane Mulligan and Victoria Martin 2007 trên cơ sở phân tích đặc điểm của người tàn tật, những vấn đề của cá nhân và những rào cản với họ, theo hướng tiếp cận đa chiều đã triển khai nghiên cứu các chiều cạnh chính của hòa nhập xã hội theo các nội dung sau Sức khỏe, giáo dục, sinh kế, xã hội và sự trao quyền. Đối với từng chiều cạnh trên các tác giả đề xuất hàng loạt chỉ báo để có thể đo lường, đánh giá về mức độ hòa nhập xã hội của người tàn tật tại một địa phương cụ thể. Ở một nghiên cứu khác về triển vọng chính sách trong cấu trúc hòa nhập xã hội của nhóm nhập cư ở Canada, tuy không trực tiếp đề cập đến việc thao tác hóa khái niệm này, song các tác giả Ratna Omidvar và Ted Richmond đã tiến hành phân tích bối cảnh xã hội, đặc điểm, vị trí và triển vọng các nhóm mới nhập cư ở Canada, từ đó đề xuất các gợi ý cho hoàn thiện chính sách theo các nội dung chính sau 1 Tiếp cận việc làm và nghề nghiệp; 2 Quyền tự quản địa phương và sự định cư người nhập cư; 3 Chính sách về sự phân chia nguồn lực; 4 Việc học tập của trẻ em và thanh niên; 5 Được bảo vệ quyền của người tị nạn; 6 Hỗ trợ tài chính cho sinh viên và vấn đề ngoài lề của người nhập cư; 7 Chính sách định cư hội nhập Laidlaw Foundation,2003. Qua phân tích các quan điểm về bản chất và nội dung của hòa nhập xã hội từ Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội năm 1995 tại Copenhagen, hoặc xem xét nó trong mối quan hệ với loại trừ xã hội, hay tiếp cận của Quỹ Laidlaw Canada, của UNDP, World Bank về hòa nhập xã hội cho đến việc triển khai nghiên cứu hòa nhập xã hội của nhiều tác giả đối với các nhóm thiểu số cụ thể như nhóm người nghèo, trẻ em, người nhập cư, người tàn tật... cùng với những kinh nghiệm nghiên cứu đã có về các nhóm yếu thế tại Việt Nam, chúng tôi cho rằng trong triển khai nghiên cứu về hòa nhập xã hội cần hướng 80 Tạp chí Tâm lý học, Số 10 199, 10 - 2015, đến tạo sự bình đẳng hay giảm bớt những khác biệt nhằm đảm bảo các điều kiện cho phép sự tham gia tích cực của người dân vào các chiều cạnh chủ yếu sau 1 Chiều cạnh kinh tế lao động, việc làm, thu nhập, chi phí cho cuộc sống; 2 Chiều cạnh liên quan đến hạ tầng định cư, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, khu vực sinh sống…; 3 Chiều cạnh về vốn xã hội mạng lưới xã hội/sự tham gia xã hội, niềm tin…; 4 Chiều cạnh về vốn con người sức khỏe, giáo dục, môi trường sống; 5 Chiều cạnh về chính trị hiểu biết về chính trị, tham gia các sự kiện chính trị. Trên cơ sở những chiều cạnh chủ yếu này tùy thuộc vào quan điểm, cách tiếp cận của các tác giả với từng nghiên cứu hòa nhập xã hội hay loại trừ xã hội của nhóm yếu thế cụ thể, sẽ lựa chọn các chiều cạnh và đề xuất các chỉ báo phù hợp ở mức độ cụ thể và chi tiết hơn, phù hợp với đặc điểm và nhu cầu của nhóm. Tuy nhiên, những chiều cạnh chính trong nội dung của hòa nhập xã hội đối với người nghèo, người tàn tật hay người nhập cư theo chúng tôi nên hướng đến tiếp cận đa chiều và sự hòa nhập cần được xem xét bao trùm hầu hết các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. 4. Kết luận Từ quan điểm đoàn kết xã hội của Durkheim, các nhà chức năng luận đã phát triển, mở rộng vấn đề hội nhập xã hội, trong đó luôn đề cập đến những nguyên tắc mà theo đó các chủ thể theo vị thế xã hội gắn kết với nhau trong không gian xã hội. Ngoài ra, sự tương tác trao đổi qua lại giữa các thành tố của một cấu trúc trong hệ thống xã hội cụ thể cũng được nhấn mạnh. Nhìn chung, các nhà chức năng luận nhìn nhận hội nhập xã hội theo cách thức thực hiện các quan hệ giữa các cá nhân, các bộ phận khác nhau của xã hội, cũng như sự tương tác, gắn kết cá nhân, các bộ phận hội nhập để tránh phá vỡ hệ thống, đồng thời thúc đẩy sự hoạt động của hệ thống xã hội như một chỉnh thể. Hội nhập xã hội là cần thiết cho sự sống còn của các xã hội. Từ những năm 80 của thế kỷ trước, vấn đề về hòa nhập xã hội gắn với các nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề của thực tế xã hội, đã nổi lên như một xu hướng xã hội quan trọng được nhiều quốc gia quan tâm. Hòa nhập xã hội là nói về sự đảm bảo chắc chắn rằng tất cả mọi người đều được chú ý, được tôn trọng, có chỗ đứng giống nhau, đồng thời đều có khả năng tham gia vào đời sống xã hội. Khi tiến hành nghiên cứu đo lường về hòa nhập xã hội, nhất là hòa nhập xã hội của các nhóm yếu thế, đã có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của khái niệm này. Từ phân tích các quan điểm trên, cùng những kinh nghiệm nghiên cứu của bản thân đối với các nhóm yếu thế ở Việt Nam hiện nay, chúng tôi đề xuất 81 Tạp chí Tâm lý học, Số 10 199, 10 - 2015, việc triển khai nghiên cứu hòa nhập xã hội theo hướng giảm bớt những khác biệt, tạo điều kiện cho phép sự tham gia tích cực của người dân vào các lĩnh vực chủ yếu sau Lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực liên quan đến hạ tầng, lĩnh vực về vốn xã hội, lĩnh vực về vốn con người và lĩnh vực về chính trị. Tài liệu tham khảo 1. Cook S., Management of Social Transformations Programme 10th Session of the Intergovernmental Council, UNRISD, MULTIMEDIA/HQ/SHS/pdf/ , 1994. 2. Diane Mulligan and Victoria Martin, Sightsavers, Disability and Social Inclusion Questions and Answers, Registered charity numbers 207544 & SC038110, 2007. 3. De Haan, Arjan, Social exclusion in policy and research Operationalizing the concept, In Social exclusion An ILO perspective, edited by Jose B. Figueiredo, and Arjan de Haan. Geneva International Labor Organization, 1998. 4. Esping-Andersen G., Why We Need a New Welfare State, Oxford University Press, Oxford, 2002. 5. Lê Ngọc Hùng, Lịch sử và lý thuyết xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002. 6. Kenneth D. Allan, Explorations in Classical Sociological Theory Seeing the Social World, SAGE Publications, Inc; 1 edition, 2005. 7. Laidlaw Foundation, The Laidlaw Foundation’s Perspective on Social Inclusion, National Library of Canada Cataloguing in Publication, 2002. 8. Marshall G., Social integration and system integration, A dictionary of Sociology, NXB Oxford, New York, 1998. 9. Mitchell A. and R. Shillington, Poverty, Inequ ality and Social Inclusion, The Laidlaw Foundation, Working paper Series, December, 2002. 10. World Bank, World Development Report 2000/2001 Attacking Poverty, New York Oxford University Press, 2001. 11. UNDP, Human Development Report, New York, Oxford University Press, 1990. 12. UNRISD, Social Integration Approaches and Issues, UNRISD Briefing Paper World Summit for Social Development, 1994. 13. United Nations, Report of the World Summit for Social Development, Copenhagen, 6-12 March, Sales No. E. Also available from http//www. 1995. ResearchGate has not been able to resolve any citations for this Hewitt de AlcántaraThe World Summit for Social Development, to be held in Copenhagen in March 1995, will consider three closely inter-related themes decreasing poverty, reducing unemployment, and enhancing social integration. With the support of the United Nations Development Programme, the United Nations Research Institute for Social Development UNRISD has been mobilising its worldwide network of scholars, activists, and development practitioners to promote reflection on major social issues, channel new information and ideas into the Summit preparatory process, and build public support for a successful Summit. To illustrate some of this work, we reproduce below the Summary of a Briefing Paper written by Cynthia Hewitt de of Social Transformations Programme 10th Session of the Intergovernmental CouncilS CookCook S., Management of Social Transformations Programme 10th Session of the Intergovernmental Council, UNRISD, MULTIMEDIA/HQ/SHS/pdf/ Disability and Social Inclusion Questions and AnswersDiane MulliganVictoria MartinDiane Mulligan and Victoria Martin, Sightsavers, Disability and Social Inclusion Questions and Answers, Registered charity numbers 207544 & SC038110, exclusion in policy and research Operationalizing the concept, In Social exclusion An ILO perspectiveDe HaanDe Haan, Arjan, Social exclusion in policy and research Operationalizing the concept, In Social exclusion An ILO perspective, edited by Jose B. Figueiredo, and Arjan de Haan. Geneva International Labor Organization, sử và lý thuyết xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà NộiHùng Lê NgọcLê Ngọc Hùng, Lịch sử và lý thuyết xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, D AllanKenneth D. Allan, Explorations in Classical Sociological Theory Seeing the Social World, SAGE Publications, Inc; 1 edition, Laidlaw Foundation's Perspective on Social Inclusion, National Library of Canada Cataloguing in PublicationLaidlaw FoundationLaidlaw Foundation, The Laidlaw Foundation's Perspective on Social Inclusion, National Library of Canada Cataloguing in Publication, integration and system integration, A dictionary of SociologyG MarshallNxbOxfordMarshall G., Social integration and system integration, A dictionary of Sociology, NXB Oxford, New York, MitchellR ShillingtonMitchell A. and R. Shillington, Poverty, Inequ ality and Social Inclusion, The Laidlaw Foundation, Working paper Series, December, 2002.
Nội dung Text Bài thuyết trình Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng A B CHỦ TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN NGHĨA XÃ HỘI THỰC HIỆN THỰC A CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC III I II SỰ KHỦNG HOẢNG, CHỦ ́ ̣ CACH MANG SỤP ĐỔ CỦA MÔ NGHĨA THANG MỪƠI ́ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ NGA VÀ SỰ XÃ HỘI XÔ VIẾT HỘI HIỆN RA ĐƠI CNXH ̀ VÀ NGUYÊN NHÂN THỰC HIÊN THỰC ̣ CỦA NÓ B TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI II IV I III V ́ ́ Những Tinh chât Chủ nghĩa Chủ Chủ và những thành tựu tư bản- nghiã nghĩa xã Việt Nam, mâu không phải xã hội hội – thuân cỡ Trung là tương lai tương hiện ̉ ̉ Quốc và ban cua của xã hội thực ở lai cũa xã hôi ̣ các nước loài người Việt xã ̀ xã hội chủ loai hội loài Nam người nghĩa khác người 2. Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời CNXH hiện thực 1. Khái lược CHỦ 3. vấn đề lý NGHĨA Mô hình chủ luận chung XÃ nghĩa xã hội về chủ nghĩa HỘI hiện thực đầu xã hội HIỆNTHỰC tiên trên hiện thưc thế giới Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội đã từ những lý thuyết không tưởng trở thành một lý luận khoa học. Quá trình thâm nhập lý luận khoa học đó vào đời sống thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực. a. Hoàn cảnh ra đời CNXH hiện thực Sau ới việc đđược ốc Nga tham chính phủ V khi nắm ế cuộchính u tình đòi hoà qu c biể quyền, nước các Trong đã không giải quyết những vấn đề đã lâm thờchiến tranh thế giới thứ i gia dân chủ của công nhân ngày một bình,trước đó như vấn đề ruộng đất của nông hứnhất đã làm chín muồi tình thế a dâng việc làmưới công nhân,vấo đề aươảng ực cao. D cho sự lãnh đạ n củ l đ ng th dân, Bolshevik, ạngết theo đuổi chiến tranh đếbị ốc vô sản. Cách m nhân dân Nga đang chuẩn và nhất là quy qu chon cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính đế cùng. quyền về tay Xôviết. Ngay trong đêm 7 tháng 11 năm 1917 25 tháng 10 theo lịch Nga, Đại hội Xô Viết toàn Nga lần thứ hai tuyên bố khai mạc tại điện Smonly và tuyên bố thành lập chính quyền Xô Viết do Lenin đứng 12 năm 1917, Hội đồng kinh tế quốc dân tối cao được thành lập nhằm xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, Nhà nước Xô Viết do đứng đầu đã ra đời trong “Mười ngày rung chuyển thế giới”. Với sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, lịch sửmạng Tháng tMười Nga mớthắngự Cách đã mở ra mộ con đường là i cho s lợiảvĩphóngnhất củaộgiai cáppbcôngổ vũ hàng loạt gi i đại các dân t c bị ấ ức, c nhân, nhân dân nướđộứng lên đấu tranh c bị ápộcứập cho dân các lao c đng và các dân tộ giành đ b l c do giai ctộp công nhân và đội tiên phong của chọ ch ế ấ c, dân chủ cho nhân dân, xóa bỏ tàn tích ủa là Đảng ực dân phong kiếđạNhiều nước trong số đó độ th Bônsêvích lãnh n. o. đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã h ội. Nó đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Hoàn cảnh ra đời Từ sau Cách mạng Tháng Mười, điều kiện xây dựng một chế độ mới cực kì khó khăn và phức tạp nền kinh tế vốn lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, sau đó là nội chiến, tiếp đó là chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc và bị bao vây cấm vận về nền kinh tế. Chính sách kinh tế mới NEP Cơ chế kế Chính sách hoạch hoá cộng sản tập trung thời chiến Hoàn cảnh ra đời Từ năm 1918 đến mùa xuân 1921, để bảo đảm cung cấp lương thực cho quân đội, cho tiền tuyến, cho công nhân và cho nhân dân thành th ị trong đi ều kiện lương thực cực kỳ khan hiếm, tư bản độc quyền và đại địa chủ không chịu bán lương thực, ép giá lương thực lên cao. Trong hoàn cảnh đó, Đảng Cộng sản Nga, đứng đầu là Lenin đã đề ra Chính sách cộng sản thời chiến. Tiến hành quốc hữu hoá tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư sản cầm quyền, đại địa chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác. Trưng thu lương thực thừa của nông dân, nhà nước độc quyền mua bán lúa mì để cung cấp cho thành thị và quân đội. Nhờ thực hiện Chính sách "cộng sản thời chiến" mà Nhà nước Xô-viết mới có lương thực để cung cấp cho quân đội và nhân dân, bảo đảm đánh thắng thù trong giặc ngoài. Khi đánh giá về chính sách đó, đã từng nói" Trong điều kiện chiến tranh mà chúng ta đã lâm vào thì về cơ bản chính sách đó là đúng". Hoàn cảnh ra đời Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc, nước Nga chuyển sang thời kỳ xây dựng chế độ xã hội mới. Cho nên cần thiết phải trở lại thực hiện Kế hoạch xây dựng CNXH do đề ra vào đầu năm 1918, phải trở lại những quan hệ kinh tế khách quan giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. Do những yêu cầu đó, Đại hội X của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Nga họp từ ngày 8- 3 đến ngày 16-3-1921 đã chủ trương thay Chính sách “cộng sản thời chiến” bằng Chính sách kinh tế mới NEP. Thực hiện” Chủ nghĩa tư bản nhà nước”. Những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu Nội hóa, nay cho tư nhân thuê hay mua lại để kinh dung doanh tự do. Phát triển mạnh tiểu, thủ công cơ nghiệp. Kế hoạch điện khí hoá toàn quốc. bản Cho phép mở rộng trao đổi hàng hóa giữa thành của thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, chính củng cố lại lưu thông tiền tệ trong nước, chú sách trọng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, phát triển kinh NEP tế hàng hóa, kinh tế nhiều thành phần. Bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa thay vào đó là thuế lương thực. + + Ngành đại thời gian ệp ắượNhà ục đã Trong một công nghi ng đn, c ph nước Kế khôiạchục ện khínền kinh hành có hiệubị chiến tranh ho ph đi được hóa tiến tế quốc dân quả, ngành tàn ện vàccơ khí chếối liênượt mức trước chiến đi phá; ủng cố kh tạo v minh công - nông. tranh, nhiều xí nghiệp công nghiệp nhẹ và công + nghiệcuthiực ph1922 Liên tXô đã vượtức trđược nạn Đến p ố năm ẩm đã đạ và vượt m qua ước chiế ến năm đói vànđtranh. 1925, nông nghiệp Liên Xô đã vượt mức trước chiến tranh, cung cấp 87% sản phẩm. + Ngân sách nhà nước đã được củng cố lại năm 1925 - 1926 ngân sách nhà nước tăng lên gần 5 lần so với năm 1922 - 1923. Trong bối cảnh, phải làm sao nhanh chóng biến nước Nga lạc hậu thành cường quốc công nghiệp, vừa để xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, vừa để chuẩn bị đối phó với nguy cơ chiến tranh. Trong điều kiện như vậy, nhà nước Xô Viết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao, một cơ chế có th ể thực hiện được khi chính quyền đã thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mọi người tuân thủ nghiêm ngặt, thống nhất tiêu chuẩn trong công việc sản xuất và phân phối sản phẩm Quản lý bằng Nội hệ thống chỉ dung cơ Thể chế kinh tế tiêu pháp lệnh. bản của kế hoạch hoá Nguyên tắc phân chính tập trung phối theo lao sách động Cải tạo nền kinh tế quốc dân. Thực hiện công nghiệp hoá XHCN Thực tế, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp công nghiệp hóa với thời gian chưa đầy 20 năm, trong đó quá nửa thời gian là nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến tranh.
lý thuyết thâm nhập xã hội